I. Tình trạng thiếu kẽm ở trẻ em Việt Nam
Thiếu kẽm là vấn đề rất phổ biến trong cộng đồng nhất là ở các quốc gia nghèo, có chế độ ăn chủ yếu là ngũ cốc, ít ăn thức ăn động vật. Viện Dinh Dưỡng vừa công bố tại hội thảo dinh dưỡng tháng 12.2014 vừa qua: 51% trẻ em tại Việt Nam đang trong tình trạng bị thiếu kẽm, thường gặp ở trẻ nhỏ, trẻ sinh non, không được bú mẹ, trẻ suy dinh dưỡng thể còi, trẻ mắc các bệnh nhiễm trùng, ký sinh trùng,… Theo đánh giá của tổ chức y tế thế giới, Việt Nam nằm trong nhóm 36 nước có tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thấp còi cao nhất thế giới. Trong các vi chất, khoáng chất có tác dụng đến dinh dưỡng của cơ thể, kẽm là vi khoáng có vai trò đặc biệt quan trọng cho phát triển chiều cao, cơ bắp, thần kinh và miễn dịch của trẻ trong những năm đầu đời.
II. Dấu hiệu thiếu kẽm
Ăn không ngon, vị giác bất thường, rụng tóc, tiêu chảy kéo dài, chậm lớn, cơ quan sinh dục chậm trưởng thành, gây sụt cân, thiếu máu, chậm lành vết thương và kém minh mẫn.
III. Vai trò của kẽm đối với cơ thể
Kẽm giúp tăng tổng hợp protein, phân chia tế bào, thúc đẩy sự tăng trưởng, tăng cảm giác ăn ngon miệng nên rất quan trọng đối với trẻ em. Kẽm có trong thành phần của các enzym trong cơ thể, kích thích hoạt động của khoảng 100 enzym, giúp duy trì và phát triển hoạt động của hệ thống miễn dịch.
Nếu thiếu kẽm, cơ thể sẽ chậm và ngừng phát triển. Trẻ biếng ăn, còi cọc, chậm lớn.
IV. Nhu cầu của kẽm và hấp thu kẽm trong cơ thể
Nhu cầu kẽm ở trẻ dưới 1 tuổi (5mg/ngày), 1 – 10 tuổi (10mg/ngày), thanh thiếu niên, người trưởng thành (15mg/ngày ở nam, 12mg/ngày ở nữ).
Trong 6 tháng đầu cho con bú mẹ cần 19mg/ngày. Lượng kẽm được hấp thu khoảng 5mg/ngày.
Canxi có tác dụng làm tăng bài tiết kẽm cho nên không cho uống cùng với kẽm. Để tăng hấp thu kẽm nên bổ sung cùng với thức ăn giàu vitamin C.
V. Cung cấp kẽm cho cơ thể
Thức ăn giàu kẽm: tôm đồng, lươn, hàu, sò, gan lợn, sữa, thịt bò, lòng đỏ trứng, cá,… Với trẻ sơ sinh, để có đủ kẽm nên bú mẹ, lượng kẽm trong sữa mẹ ở tháng đầu tiên là cao nhất (2 – 3mg/lít), sau 3 tháng giảm dần còn 0,9mg/lít. Lượng kẽm mà người mẹ mất qua sữa trong 3 tháng đầu là 1,4mg/ngày. Do đó, người mẹ phải ăn nhiều thực phẩm giàu kẽm để có đủ cho 2 mẹ con.
VI. Các biện pháp phòng chống thiếu kẽm
– Khuyến khích chế độ ăn đa dạng thực phẩm trong bữa ăn, sử dụng thực phẩm giàu kẽm, thay đổi những thói quen ăn uống có lợi cho hấp thu kẽm…
– Bổ sung kẽm vào thực phẩm như bánh quy, ngũ cốc, bột dinh dưỡng, bột mì, hạt nêm… Các sản phẩm được bổ sung vi chất được ghi rõ trên nhãn mác về liều lượng và loại vi chất bổ sung. Cần lưu ý thời hạn sử dụng trên nhãn mác.
– Thúc đẩy và hỗ trợ nuôi con bằng sữa mẹ tại cộng đồng.
– Dự phòng và điều trị bệnh liên quan tới thiếu kẽm (nhiễm khuẩn kéo dài như tiêu chảy, nhiễm giun, bệnh viêm tuỵ, viêm thận…).
– Phòng chống nhiễm ký sinh trùng đường ruột.
– Tuyên truyền giáo dục cho người dân thực hiện tốt vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, sử dụng nước sạch, phòng chống tiêu chảy
– Phòng chống giun sán
– Tiêm chủng mở rộng đầy đủ….
– Dự phòng và điều trị thiếu kẽm (tại cơ sở y tế).
– Giáo dục dinh dưỡng: Thực hiện truyền thông giáo dục đại chúng, hướng dẫn thực hành để các gia đình biết cách phòng chống thiếu kẽm thông qua chế độ ăn.
Ths. Đỗ Hữu Hanh, Phòng khám dinh dưỡng 70 Nguyễn Chí Thanh, Trung tâm y tế dự phòng Hà Nội